Xe Lam là phương tiện giao thông công cộng dành cho người bình dân tại miền Nam Việt Nam từ thập niên 60 để thay thế xe ngựa thồ (thổ mộ) vẫn còn được sử dụng vào khoảng thời gian đó.
Bắt nguồn từ tên gọi dòng sản phẩm Lambretta của Italya, thuở mới xuất hiện bên thùng xe chỉ dập nổi chữ Lambretta, hay Vespa nhưng về sau kèm một con số như: Lambro 150, Lambro 175, Lambro 200, Lambro 500, Lambro 550… Đây là nguyên nhân ra đời cái tên “xe Lam”.
Trong một đoạn quảng cáo về xe Lam thời đó có nội dung:
Thiết kế của xe khá đặc biệt, chia làm hai “toa” hẳn hoi. Cabin cho tài xế ngồi phía trước và thùng nhỏ phía sau chở được 8-10 người. Càng lái xe Lam giống như ghi-đông xe gắn máy, dù chở cả chục người nhưng xe cũng vô số tay như xe hai bánh Lambretta.
Dưới ghế của bác tài là thùng chứa máy xe. Nếu xe chết máy bác tài phải nhảy xuống đường mới mở yên được, sau đó dùng sợi dây thừng kéo cho máy nổ (giống như vận hành máy phát điện gia đình) hoặc tra dầu, chùi bu-gi cho máy xe.
Khách ngồi trên hai hàng ghế dài đặt dọc theo thùng xe, song song nhau. Nếu hai người đối diện đều “chân dài” thì bốn đầu gối thế nào cũng đụng nhau lốp cốp mỗi khi xe thắng gấp, không muốn khua thì hai cặp giò phải lồng so le vào nhau.
Chính vì kiểu xếp ghế ngồi như thế mà nhiều chàng trai, cô gái tình cờ quen biết và nhiều cuộc tình đã bắt đầu trên những chuyến xe Lam như trong lời bài hát Chuyến xe lam chiều của nhạc sĩ Vinh Sử:
Giá một chiếc xe Lam hồi thập niên 60 khoảng 30 cây vàng. Ông Lâm Quang Thành (quận 4), người từng có thâm niên hơn chục năm lái xe Lam cho biết do xe khá đắt nên không phải ai cũng có thể mua, nhưng nếu mua được thì nó mang về lợi nhuận rất nhiều.
“Hồi đó người ta vẫn hay nói là chạy xe Lam một ngày có thể nghỉ cả tháng, nhưng đó là nói quá lên thôi. Tuy nhiên, nếu sắm được một chiếc xe Lam chạy khách có thể nuôi được cả nhà”, ông Thành nói.
Thời đó, lộ trình xe Lam cũng giăng kín Sài Gòn như xe buýt ngày nay nhưng điểm khác biệt là không có trạm dừng cố định cho khách lên xuống. Ai muốn đi thì ra sát vệ đường vẫy tay đón và xe cũng dừng lại bất cứ chỗ nào cho khách xuống
Người buôn bán có thể chất quang gánh, bao và một số thứ linh tinh trên nóc xe – điều mà xe buýt không chấp nhận. Vì vậy, dù giá vé xe Lam mắc hơn xe buýt (vé xe buýt là 2 đồng, vé xe Lam là 5 đồng) nhưng nhiều người vẫn lựa chọn vì tiện lợi.
Đến cuối năm 1968, toàn miền Nam có hơn 17.000 chiếc xe Lam, trong đó riêng Sài Gòn có 3.200 chiếc. Đến năm 1971, xe Lam là phương tiện vận chuyển quan trọng nhất Sài Gòn cũng như các tỉnh miền Nam vì hệ thống xe buýt đã ngưng hoạt động và chưa phục hồi. Theo báo chí lúc đó thì toàn miền Nam có đến hơn 30.000 chiếc, số xe Lam lưu hành gấp 7 lần taxi.
Nếu khoảng thập niên 1950 người Sài Gòn vẫn còn thấy xe thổ mộ (xe ngựa) ra vô chợ Bến Thành thì đến đầu 1960 xích lô đạp, xích lô máy là phương tiện vận chuyển thuộc hàng VIP.
Sang đầu thập niên 1970, xe Lam cùng taxi chiếm lĩnh đường phố, kế đó là sự xuất hiện của xe buýt… Sau khi đất nước thống nhất năm 1975, các phương tiện cơ giới khác bị thiếu xăng hoặc thiếu phụ tùng thay thế không sử dụng được nên xe Lam được dùng làm phương tiện phổ biến rẻ tiền.
Từ năm 2004, Chính phủ ban hành Nghị định 23 quy định về niên hạn sử dụng đối với các loại ôtô tải và ôtô chở người tham gia giao thông trên hệ thống đường bộ), xe Lam bị hạn chế và từ từ bị cấm hẳn.
Ngày nay, dù bóng dáng xe Lam không còn xuất hiện trên đường phố Sài Gòn, nhưng loại xe 3 bánh với tiếng nổ “bành bành” cùng mùi khói xăng đã từng trở thành một phần trong cuộc sống của người dân Sài Gòn. Trong ký ức của nhiều người, xe Lam vẫn là một chút gì đó còn lại của Sài Gòn thuở xa xưa.
Trong thơ thì có: "Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non" (Ca sao), trong nhạc thì có "Gánh, gánh, gánh... Gánh lúa về..." (Gánh Lúa - Phạm Duy và Lê Yên).
Xem thêm →Nếu điện ảnh có Kim Vui thì làng nhạc có Mai Lệ Huyền...
Xem thêm →Năm 1966, nhà tôi xuất hiện một vật quý không thể tưởng tượng được. Đó là một cái ti vi hiệu Denon thuộc Hãng Columbia của Nhật, 19 inches.
Xem thêm →